Mất vốn văn hóa, đất nước loay hoay phát triển
Nhà báo Thu Hà:Thưa quý vị, không một quốc gia, một dân tộc nào phát triển hùng mạnh mà thiếu vắng văn hóa. Văn hóa là cốt lõi của sức mạnh mềm, là yếu tố đóng vai trò quyết định sức mạnh, vị thế, uy tín quốc gia. Gia tăng sức mạnh này là chiến lược quan trọng để hoàn thành nhiều mục tiêu lớn của dân tộc. Đây cũng là nội dung tọa đàm tổng kết các vấn đề văn hóa-xã hội cuối năm của Tuần Việt Nam.
Xin trân trọng giới thiệu hai khách mời là Nhà biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát và nhà báo Phạm Kim Dung (Kỳ Duyên). Nếu nhìn lại các vấn đề văn hóa-xã hội của dân tộc một năm qua, điều gì khiến các chị suy nghĩ, trăn trở nhất?
"Tiếng Việt còn, nước ta còn"
Nhà báo Kim Dung/Kỳ Duyên: Có câu nói rất nổi tiếng của học giả Phạm Quỳnh “Tiếng Việt còn, nước ta còn”, chương trình Điều còn mãi của VietNamNet, khi ca sĩ Nguyên Thảo cất lên ca khúc “Tình ca” của nhạc sĩ Phạm Duy, có câu “Tôi yêu nước nước tôi, từ khi mới ra đời…” khiến tôi cảm động đến gai người.
Tiếng Việt còn, nước ta còn. Văn hóa còn, nước ta còn. Một điểm đặc thù của văn hóa, là được tiếp nhận, được sàng lọc rất lâu qua hàng nghìn năm, hàng thế kỷ. Văn hóa là “mưa dầm thấm đất”.
Nói đến văn hóa không thể tách rời kinh tế-xã hội. Kinh tế-xã hội nào, văn hóa ấy. Văn hóa là cơ sở để bảo đảm cho nhân cách, vị thế, tầm vóc một dân tộc. Một con người, dù giàu có nhưng không quan tâm chăm chút vốn văn hóa thì xét cho cùng chỉ là trọc phú. Một dân tộc nếu chỉ giàu mà không chăm chút văn hóa chắc chắn không thể bền vững, bởi nó không thấy rõ cái bản sắc của dân tộc đó. Văn hóa là sản phẩm của cơ chế quản lý, của sự phát triển kinh tế-xã hội. Nó được điều chỉnh trong mối tương quan xã hội đó.
Trở lại câu hỏi của Thu Hà, nhìn lại văn hóa-xã hội năm qua, tôi thấy có điểm sáng là việc Đà Nẵng, Hội An vươn lên để được chọn là nơi đáng sống nhất; trong nhóm địa danh du lịch yêu thích nhất. Đó là một cách quảng bá cho văn hóa Việt. Có những di sản văn hóa được UNESCO công nhận. Có những con người cụ thể với những việc làm cụ thể đầy tính nhân văn, văn hóa, ý nghĩa, như Nhóm Cơm có thịt của Trần Đăng Tuấn, chương trình Lục lạc vàng của Đài truyền hình VN.
Bên cạnh đó, trong thời kinh tế thị trường này, lại có những khái niệm rất buồn, đó là “văn hóa tham nhũng”. Tham nhũng đâu phải là văn hóa, thực tế là phản văn hóa, là mặt trái của văn hóa. Vậy mà bây giờ người ta “thừa nhận” tham nhũng như một nét văn hóa thì nguy quá.
Đó là thái độ vô cảm của người Việt với nhau khi đồng loại gặp rủi ro, tai họa có thể gặp mọi nơi, mọi chỗ. Như số đông con người xông vào hôi của; cướp tiền, cướp bia…. Đó còn là chuyện đánh chửi, xúc phạm thầy cô giáo, đuổi chém thầy thuốc. Sự phản văn hóa nhiều khi chính là tội ác. Thật đau đớn khi phải đọc, phải nghe không biết bao vụ trẻ em bị xâm hại, bị bạo hành. Có gì đau đớn hơn khi những đứa trẻ tiểu học, ngay ở HN, khi đến trường, luôn phải được cảnh báo đi vệ sinh không được đi một mình.
Những mặt tối đó, những hiện trạng đó đã được chính các nhà tâm lý xã hội gọi là sự “rối loạn những giá trị”.
Nhà biên kịch Hồng Ngát: Không thể phủ nhận, những thành tựu về kinh tế của đất nước so với hơn chục năm về trước quả thực tốt hơn rất nhiều. Nhưng thật tiếc, khi những bất ổn xã hội vẫn tồn tại.
Nhớ những năm nghèo khổ, cuộc sống rất thanh bình, có trật tự xã hội. Con người sống tình nghĩa, san sẻ bao dung.
Tôi nhớ hồi 18 tuổi, nửa đêm tôi đi bộ một mình từ Cửa Nam lên khu văn công Mai Dịch mà chẳng có vấn đề gì. Nhưng bây giờ khác lắm.
Kinh tế khá lên đáng lẽ văn hóa phải lên theo thì ngược lại những gì đang được báo chí phản ánh, các ĐBQH phản ánh lại cho thấy văn hóa ta đang xuống cấp, đang lệch chuẩn...
Người dân rất muốn hỏi lãnh đạo các cấp là tại sao kinh tế lên mà văn hóa lại xuống? Bởi nếu tìm được câu trả lời thì sẽ tìm được lời giải đáp để chữa chạy những lệch lạc hiện nay.
Bên cạnh những quyết sách phát triển kinh tế-văn hóa cũng cần có những quyết sách để gìn giữ và phát triển văn hóa bởi đó chính là nền tảng, là cốt lõi của mỗi xã hội. Mỗi một gia đình hạnh phúc êm ấm thì xã hội sẽ bền vững, quốc gia sẽ có nhiều cơ hội phát triển hưng thịnh.
Hiện nay, các mối quan hệ đã bị đổ vỡ rất nhiều. Những chuyện xảy ra được báo chí dẫn lại cho thấy những chuyện đau lòng như con cái không kính trọng cha mẹ, thậm chí là chửi bới, hành hạ, giết cả bậc sinh thành. Trong các quan hệ xã hội thì con người bỗng nhiên trở nên dễ giận dữ, dễ dẫm đạp lên nhau. Ngày càng thiếu vắng sự tương kính giữa người với người.
Tôi tin rằng, các vị lãnh đạo luôn mong muốn và đang có những định hướng làm sao để xã hội ngày càng tốt lên, không chỉ kinh tế mạnh lên, mà văn hóa cũng gìn giữ được. Mong là vậy, muốn là vậy nhưng tại sao chúng ta vẫn chưa làm được?
Vừa rồi, những thông tin về vị nguyên tổng thanh tra chính phủ, người luôn lên tiếng kêu gọi chống tham nhũng vậy mà ông ấy lại là người tham nhũng; rồi còn chuyện ông cựu bí thư Huế khai man và có vấn đề về tư cách. Vẫn biết đó chỉ là những con sâu, không phải phổ biến, nhưng một vài vị như vậy, cũng làm người dân suy nghĩ và mất mát niềm tin.
Lòng tự trọng chính là sức mạnh, là nội lực, góp phần quan trọng đưa nước Nhật hùng mạnh như ngày nay.
Có lòng dân, là có tất cả
Nhà báo Thu Hà:Từ những trăn trở của các chị, có thể thấy rằng những chấn thương tâm lý hiện đại đang gặm nhấm và bào mòn dần sức mạnh của đất nước mình. Vậy, theo các chị nguyên nhân là do đâu và ai phải chịu trách nhiệm?
Nhà biên kịch Hồng Ngát: Ngày xưa chúng ta có các đoàn thể chính trị xã hội và chúng tôi trưởng thành từ đó. Tuy nhiên, các đoàn thể thời chúng tôi rất nghiêm. Muốn là thành viên, cần phải chuẩn bị và phấn đấu, rèn luyện quyết liệt, chuẩn bị cho mình nhiều điểm tốt, và những điểm tốt này phải được xã hội, được tập thể công nhận.
Tiếc rằng bây giờ đâu đó người ta phấn đấu đơn giản quá, dễ dàng quá, nhiều khi để tìm cơ hội thăng tiến, vì chức tước hơn là để đóng góp cho sự nghiệp phát triển chung, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng chung. Trong khi những người có khí tiết, có lòng tự trọng vì không chịu đi cổng sau nên thường bị thua thiệt. Năm rồi ở Hà Nội từng có người nói công khai khi họp về giá chạy việc, chạy chức. Nếu không có lửa thì làm sao có khói.
Dân tộc mình trong chiến tranh người người đã xả thân, đùm bọc lẫn nhau không tiếc máu xương. Tại sao giờ đất nước hòa bình, cuộc sống khấm khá hơn thì bỗng đâm ra sống ích kỷ, chỉ biết thu vén, lòng tham trở nên vô đáy không biết thế nào là đủ. Con người dễ sinh nóng giận, mạt sát, dễ dẫm đạp lên nhau, chẳng ai tin ai. Đó là bởi lòng tham là sự ích kỷ nhỏ nhen, là bởi quan điểm sống và mục tiêu sống đã quá khác trước.
Tôi là người đã viết kịch bản và sản xuất bộ phim về Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là phim “Nhìn ra biển cả”. Bộ phim về thời trẻ của Chủ Tịch. Để làm bộ phim này tôi đã đọc rất nhiều tư liệu về cuộc sống bình dị, nhân ái, bao dung của Cụ. Chẳng cần nhìn đâu xa, chỉ cần nhìn tấm gương của Cụ như thế mà dọn mình. Có được lòng dân là có được tất cả. Khi mà lòng dân đã thu phục được bằng những tấm gương đạo đức chí công vô tư, bằng sự liêm khiết chính trực thì chính quyền ắt sẽ bền vững, đưa ra quyết sách gì nhân dân cũng ủng hộ.
Chẳng phải đâu xa, ngay chuyện phim ảnh cũng có thể thấy, nhiều bộ phim mang tính nhân văn nhưng lại rất khan người xem, trong khi đó, những bộ phim khai thác nhiều, khai thác sâu về đề tài cướp, giết, hiếp… lại luôn trong tình trạng cháy vé. Sống ào ạt, làm ào ạt, sống vội, sống gấp quen rồi… Chậm lại chút, nghĩ ngợi chút dường như là một điều xa xỉ..
Cái lệch chuẩn còn thể hiện ở việc nhiều người đang bị rơi vào bẫy hư danh. Một đất nước hướng theo học vị thì tốt nhưng mà phải là học vị thật chứ không thể là học vị “mua” hoặc sao chép cốt lấy cái bằng làm le với thiên hạ.
Nhà báo Kim Dung/Kỳ Duyên: Cái chấn thương tâm lý lớn nhất trong xã hội hiện nay là gì? Chính là suy giảm niềm tin. Ngay với một đứa trẻ, mất niềm tin đã là một chấn thương lớn lắm khi trẻ mới bước vào đời. Thậm chí là nỗi ám ảnh, và có khi nó đi theo suốt trong cuộc đời. Cho nên có một câu nói “mất niềm tin là mất tất cả”.
Còn với một XH như chúng ta, cách đây mấy năm tôi nghe ĐBQH Dương Trung Quốc, trong một phát biểu trên báo, ông nói đến sự u ám của niềm tin. Còn bây giờ, tôi thấy niềm tin đó không chỉ là u ám, mà là “mất mát”. Vì liệu người dân có thể có niềm tin không khi mà ngay vị cán bộ cao cấp của đất nước cũng phải nói : “Trước đây chỉ có một con sâu làm rầu nồi canh, nay thì nhiều con sâu lắm. Nghe mà thấy xấu hổ…”
Nhà báo Thu Hà: Thế hệ của các chị, cơ sở để đặt niềm tin là gì?
Nhà báo Kim Dung/ Kỳ Duyên: Thế hệ chúng tôi khi đó sống rất lý tưởng. Trong nhà trường tiểu học, thì có 05 điều Bác Hồ dạy. Những năm tháng chiến tranh, ở nơi sơ tán, là hoàn toàn hồn nhiên sống theo lẽ sống “03 sẵn sàng”. Hay là “đi bất cứ đâu khi Tổ quốc cần”. Các tác phẩm văn học , từ trong nhà trường cho đến cuộc đời cũng tác động nhiều đến từng cá nhân. Lúc đó chúng tôi sống trong một môi trường lành mạnh, XH cũng lành mạnh hơn rất nhiều.
Giờ đây, không ít người có niềm tin ở… tiền. “Có tiền mua tiên cũng được- có cả một tổng kết dân gian mang tính triết lý đáng buồn như thế. Rồi “Không thể mua được bằng tiền, nhưng có thể mua bằng… rất nhiều tiền”. Con người giờ đây tin ở sức mạnh đồng tiền thế cơ mà.
Dù thực ra trong xã hội, vẫn luôn tồn tại những điều tốt, vẫn luôn có những con người tốt bụng, sẵn sàng làm những điều, những việc từ thiện, nhân ái nhưng dường như đồng tiền giờ đây có sức chế ngự mạnh hơn. Người ta bảo giờ là “thời Kim Tiền”!
Có những quan chức tham lam, lạm dụng quyền chức vơ vét, dối trá cướp công đồng đội, thực chất là đã tự tha hóa. Những con sâu ấy đã làm vẩn đục môi trường sống của XH, làm người dân bất bình, phẫn nộ và hoài nghi tất cả. Nên thấy đó là nỗi hổ thẹn của một dân tộc. Bởi họ đã không coi pháp luật là gì. Họ tự cho mình quyền “ngồi trên pháp luật”.
Hãy nhìn nguy cơ mất niềm tin thực sự là nguy hiểm, bởi nó ảnh hưởng đến tầm vóc, nhân cách và làm suy yếu dân tộc.
Nhà biên kịch Hồng Ngát: Thế hệ chúng tôi bây giờ thuộc diện “cổ lai hy” rồi. Nhưng không phải cái gì cũ cũng đều bỏ đi. Có những cái cũ tốt thì cần giữ lại. Chả thế mà có người cứ đùa vui (nhưng cũng có sự thật trong đó) rằng “bao giờ cho đến ngày xưa?” Ngày xưa thanh bình ơi, ngày xưa trong trẻo ơi, ngày xưa tình nghĩa ơi, ngày xưa trọng đạo nghĩa hơn tiền bạc ơi… Bao nhiêu cái ơi ấy, bây giờ có gọi cũng chả thấy hay ít thấy trả lời. Thật tiếc!
Nhà báo Thu Hà:Vừa rồi bộ trưởng Hoàng Tuấn Anh có thông báo, hơn 80% gia đình Việt Nam đạt danh hiệu gia đình văn hóa. Các chị có bình luận gì về con số này và thực tế cuộc sống đang diễn ra?
Nhà báo Kim Dung/ Kỳ Duyên: Tôi chợt nhớ đến con số của Bộ trưởng Nguyễn Thái Bình rằng, 99% công chức hoàn thành nhiệm vụ. Con số đó sẽ là sự.. tương hỗ tương thích hơn 80% gia đình văn hóa.
Con số đó chỉ phản chiếu thêm đó là bệnh thành tích, chưa phản ánh được sự thật là các gia đình văn hóa hay không?
Không ai phủ nhận mục đích của cuộc vận động Xây dựng gia đình văn hóa là tốt, vì gia đình là tế bào của XH. Tuy nhiên, đất nước đã chuyển sang cơ chế thị trường, mọi thang bậc giá trị, tiêu chí văn hóa cần gắn kết với thời cuộc mới. Không thể dùng cái tiêu chí cũ để đo các thang bậc giá trị mới.
Nhà biên kịch Hồng Ngát: Khen thưởng đúng thì động viên được rất nhiều. Nhưng nếu chỉ chạy theo thành tích mà ban phát sự khen búa xua thì lại hỏng.
Cạnh sự khen cũng cần biết lắng nghe. Một con người còn luôn luôn phải tu dưỡng sửa đổi mình để tốt lên huống hồ một đất nước. Cái cốt lõi là phải biết lắng nghe những lời nói phải, tránh sự qui chụp cho rằng thế là do họ không tốt với mình, là không ưa mình, ghét mình, cao hơn nữa là “phản bội” mình nên mới nói thế.
Hãy bỏ qua hiện tượng mà nhìn vào bản chất. Ví như có người hay nói nghịch nhĩ nhưng khi có việc khó khăn là thấy họ có mặt ghé vai ngay. Cuộc sống muôn màu như thế đấy. Phải biết tỉnh táo mà nhìn đúng người, đúng việc. Nói là vậy nhưng chẳng phải lúc nào và bao giờ cũng minh mẫn và tỉnh táo được. Nghe khen–dù biết là khen không thật–vẫn cứ thích hơn là nghe chê…
Trớ trêu thay!
(Còn tiếp)
Nhà báo Thu Hà:Thưa quý vị, không một quốc gia, một dân tộc nào phát triển hùng mạnh mà thiếu vắng văn hóa. Văn hóa là cốt lõi của sức mạnh mềm, là yếu tố đóng vai trò quyết định sức mạnh, vị thế, uy tín quốc gia. Gia tăng sức mạnh này là chiến lược quan trọng để hoàn thành nhiều mục tiêu lớn của dân tộc. Đây cũng là nội dung tọa đàm tổng kết các vấn đề văn hóa-xã hội cuối năm của Tuần Việt Nam.
Xin trân trọng giới thiệu hai khách mời là Nhà biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát và nhà báo Phạm Kim Dung (Kỳ Duyên). Nếu nhìn lại các vấn đề văn hóa-xã hội của dân tộc một năm qua, điều gì khiến các chị suy nghĩ, trăn trở nhất?
"Tiếng Việt còn, nước ta còn"
Nhà báo Kim Dung/Kỳ Duyên: Có câu nói rất nổi tiếng của học giả Phạm Quỳnh “Tiếng Việt còn, nước ta còn”, chương trình Điều còn mãi của VietNamNet, khi ca sĩ Nguyên Thảo cất lên ca khúc “Tình ca” của nhạc sĩ Phạm Duy, có câu “Tôi yêu nước nước tôi, từ khi mới ra đời…” khiến tôi cảm động đến gai người.
Tiếng Việt còn, nước ta còn. Văn hóa còn, nước ta còn. Một điểm đặc thù của văn hóa, là được tiếp nhận, được sàng lọc rất lâu qua hàng nghìn năm, hàng thế kỷ. Văn hóa là “mưa dầm thấm đất”.
Nói đến văn hóa không thể tách rời kinh tế-xã hội. Kinh tế-xã hội nào, văn hóa ấy. Văn hóa là cơ sở để bảo đảm cho nhân cách, vị thế, tầm vóc một dân tộc. Một con người, dù giàu có nhưng không quan tâm chăm chút vốn văn hóa thì xét cho cùng chỉ là trọc phú. Một dân tộc nếu chỉ giàu mà không chăm chút văn hóa chắc chắn không thể bền vững, bởi nó không thấy rõ cái bản sắc của dân tộc đó. Văn hóa là sản phẩm của cơ chế quản lý, của sự phát triển kinh tế-xã hội. Nó được điều chỉnh trong mối tương quan xã hội đó.
Trở lại câu hỏi của Thu Hà, nhìn lại văn hóa-xã hội năm qua, tôi thấy có điểm sáng là việc Đà Nẵng, Hội An vươn lên để được chọn là nơi đáng sống nhất; trong nhóm địa danh du lịch yêu thích nhất. Đó là một cách quảng bá cho văn hóa Việt. Có những di sản văn hóa được UNESCO công nhận. Có những con người cụ thể với những việc làm cụ thể đầy tính nhân văn, văn hóa, ý nghĩa, như Nhóm Cơm có thịt của Trần Đăng Tuấn, chương trình Lục lạc vàng của Đài truyền hình VN.
Bên cạnh đó, trong thời kinh tế thị trường này, lại có những khái niệm rất buồn, đó là “văn hóa tham nhũng”. Tham nhũng đâu phải là văn hóa, thực tế là phản văn hóa, là mặt trái của văn hóa. Vậy mà bây giờ người ta “thừa nhận” tham nhũng như một nét văn hóa thì nguy quá.
Đó là thái độ vô cảm của người Việt với nhau khi đồng loại gặp rủi ro, tai họa có thể gặp mọi nơi, mọi chỗ. Như số đông con người xông vào hôi của; cướp tiền, cướp bia…. Đó còn là chuyện đánh chửi, xúc phạm thầy cô giáo, đuổi chém thầy thuốc. Sự phản văn hóa nhiều khi chính là tội ác. Thật đau đớn khi phải đọc, phải nghe không biết bao vụ trẻ em bị xâm hại, bị bạo hành. Có gì đau đớn hơn khi những đứa trẻ tiểu học, ngay ở HN, khi đến trường, luôn phải được cảnh báo đi vệ sinh không được đi một mình.
Những mặt tối đó, những hiện trạng đó đã được chính các nhà tâm lý xã hội gọi là sự “rối loạn những giá trị”.
Nhà biên kịch Hồng Ngát: Không thể phủ nhận, những thành tựu về kinh tế của đất nước so với hơn chục năm về trước quả thực tốt hơn rất nhiều. Nhưng thật tiếc, khi những bất ổn xã hội vẫn tồn tại.
Nhớ những năm nghèo khổ, cuộc sống rất thanh bình, có trật tự xã hội. Con người sống tình nghĩa, san sẻ bao dung.
Tôi nhớ hồi 18 tuổi, nửa đêm tôi đi bộ một mình từ Cửa Nam lên khu văn công Mai Dịch mà chẳng có vấn đề gì. Nhưng bây giờ khác lắm.
Kinh tế khá lên đáng lẽ văn hóa phải lên theo thì ngược lại những gì đang được báo chí phản ánh, các ĐBQH phản ánh lại cho thấy văn hóa ta đang xuống cấp, đang lệch chuẩn...
Người dân rất muốn hỏi lãnh đạo các cấp là tại sao kinh tế lên mà văn hóa lại xuống? Bởi nếu tìm được câu trả lời thì sẽ tìm được lời giải đáp để chữa chạy những lệch lạc hiện nay.
Bên cạnh những quyết sách phát triển kinh tế-văn hóa cũng cần có những quyết sách để gìn giữ và phát triển văn hóa bởi đó chính là nền tảng, là cốt lõi của mỗi xã hội. Mỗi một gia đình hạnh phúc êm ấm thì xã hội sẽ bền vững, quốc gia sẽ có nhiều cơ hội phát triển hưng thịnh.
Hiện nay, các mối quan hệ đã bị đổ vỡ rất nhiều. Những chuyện xảy ra được báo chí dẫn lại cho thấy những chuyện đau lòng như con cái không kính trọng cha mẹ, thậm chí là chửi bới, hành hạ, giết cả bậc sinh thành. Trong các quan hệ xã hội thì con người bỗng nhiên trở nên dễ giận dữ, dễ dẫm đạp lên nhau. Ngày càng thiếu vắng sự tương kính giữa người với người.
Nhà biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát (trái) |
Tôi tin rằng, các vị lãnh đạo luôn mong muốn và đang có những định hướng làm sao để xã hội ngày càng tốt lên, không chỉ kinh tế mạnh lên, mà văn hóa cũng gìn giữ được. Mong là vậy, muốn là vậy nhưng tại sao chúng ta vẫn chưa làm được?
Vừa rồi, những thông tin về vị nguyên tổng thanh tra chính phủ, người luôn lên tiếng kêu gọi chống tham nhũng vậy mà ông ấy lại là người tham nhũng; rồi còn chuyện ông cựu bí thư Huế khai man và có vấn đề về tư cách. Vẫn biết đó chỉ là những con sâu, không phải phổ biến, nhưng một vài vị như vậy, cũng làm người dân suy nghĩ và mất mát niềm tin.
Lòng tự trọng chính là sức mạnh, là nội lực, góp phần quan trọng đưa nước Nhật hùng mạnh như ngày nay.
Có lòng dân, là có tất cả
Nhà báo Thu Hà:Từ những trăn trở của các chị, có thể thấy rằng những chấn thương tâm lý hiện đại đang gặm nhấm và bào mòn dần sức mạnh của đất nước mình. Vậy, theo các chị nguyên nhân là do đâu và ai phải chịu trách nhiệm?
Nhà biên kịch Hồng Ngát: Ngày xưa chúng ta có các đoàn thể chính trị xã hội và chúng tôi trưởng thành từ đó. Tuy nhiên, các đoàn thể thời chúng tôi rất nghiêm. Muốn là thành viên, cần phải chuẩn bị và phấn đấu, rèn luyện quyết liệt, chuẩn bị cho mình nhiều điểm tốt, và những điểm tốt này phải được xã hội, được tập thể công nhận.
Tiếc rằng bây giờ đâu đó người ta phấn đấu đơn giản quá, dễ dàng quá, nhiều khi để tìm cơ hội thăng tiến, vì chức tước hơn là để đóng góp cho sự nghiệp phát triển chung, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng chung. Trong khi những người có khí tiết, có lòng tự trọng vì không chịu đi cổng sau nên thường bị thua thiệt. Năm rồi ở Hà Nội từng có người nói công khai khi họp về giá chạy việc, chạy chức. Nếu không có lửa thì làm sao có khói.
Dân tộc mình trong chiến tranh người người đã xả thân, đùm bọc lẫn nhau không tiếc máu xương. Tại sao giờ đất nước hòa bình, cuộc sống khấm khá hơn thì bỗng đâm ra sống ích kỷ, chỉ biết thu vén, lòng tham trở nên vô đáy không biết thế nào là đủ. Con người dễ sinh nóng giận, mạt sát, dễ dẫm đạp lên nhau, chẳng ai tin ai. Đó là bởi lòng tham là sự ích kỷ nhỏ nhen, là bởi quan điểm sống và mục tiêu sống đã quá khác trước.
Tôi là người đã viết kịch bản và sản xuất bộ phim về Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là phim “Nhìn ra biển cả”. Bộ phim về thời trẻ của Chủ Tịch. Để làm bộ phim này tôi đã đọc rất nhiều tư liệu về cuộc sống bình dị, nhân ái, bao dung của Cụ. Chẳng cần nhìn đâu xa, chỉ cần nhìn tấm gương của Cụ như thế mà dọn mình. Có được lòng dân là có được tất cả. Khi mà lòng dân đã thu phục được bằng những tấm gương đạo đức chí công vô tư, bằng sự liêm khiết chính trực thì chính quyền ắt sẽ bền vững, đưa ra quyết sách gì nhân dân cũng ủng hộ.
Chẳng phải đâu xa, ngay chuyện phim ảnh cũng có thể thấy, nhiều bộ phim mang tính nhân văn nhưng lại rất khan người xem, trong khi đó, những bộ phim khai thác nhiều, khai thác sâu về đề tài cướp, giết, hiếp… lại luôn trong tình trạng cháy vé. Sống ào ạt, làm ào ạt, sống vội, sống gấp quen rồi… Chậm lại chút, nghĩ ngợi chút dường như là một điều xa xỉ..
Cái lệch chuẩn còn thể hiện ở việc nhiều người đang bị rơi vào bẫy hư danh. Một đất nước hướng theo học vị thì tốt nhưng mà phải là học vị thật chứ không thể là học vị “mua” hoặc sao chép cốt lấy cái bằng làm le với thiên hạ.
Nhà báo Kim Dung/Kỳ Duyên: Cái chấn thương tâm lý lớn nhất trong xã hội hiện nay là gì? Chính là suy giảm niềm tin. Ngay với một đứa trẻ, mất niềm tin đã là một chấn thương lớn lắm khi trẻ mới bước vào đời. Thậm chí là nỗi ám ảnh, và có khi nó đi theo suốt trong cuộc đời. Cho nên có một câu nói “mất niềm tin là mất tất cả”.
Còn với một XH như chúng ta, cách đây mấy năm tôi nghe ĐBQH Dương Trung Quốc, trong một phát biểu trên báo, ông nói đến sự u ám của niềm tin. Còn bây giờ, tôi thấy niềm tin đó không chỉ là u ám, mà là “mất mát”. Vì liệu người dân có thể có niềm tin không khi mà ngay vị cán bộ cao cấp của đất nước cũng phải nói : “Trước đây chỉ có một con sâu làm rầu nồi canh, nay thì nhiều con sâu lắm. Nghe mà thấy xấu hổ…”
Nhà báo Thu Hà: Thế hệ của các chị, cơ sở để đặt niềm tin là gì?
Nhà báo Kim Dung/ Kỳ Duyên: Thế hệ chúng tôi khi đó sống rất lý tưởng. Trong nhà trường tiểu học, thì có 05 điều Bác Hồ dạy. Những năm tháng chiến tranh, ở nơi sơ tán, là hoàn toàn hồn nhiên sống theo lẽ sống “03 sẵn sàng”. Hay là “đi bất cứ đâu khi Tổ quốc cần”. Các tác phẩm văn học , từ trong nhà trường cho đến cuộc đời cũng tác động nhiều đến từng cá nhân. Lúc đó chúng tôi sống trong một môi trường lành mạnh, XH cũng lành mạnh hơn rất nhiều.
Giờ đây, không ít người có niềm tin ở… tiền. “Có tiền mua tiên cũng được- có cả một tổng kết dân gian mang tính triết lý đáng buồn như thế. Rồi “Không thể mua được bằng tiền, nhưng có thể mua bằng… rất nhiều tiền”. Con người giờ đây tin ở sức mạnh đồng tiền thế cơ mà.
Nhà báo Phạm Kim Dung/Kỳ Duyên (trái) |
Dù thực ra trong xã hội, vẫn luôn tồn tại những điều tốt, vẫn luôn có những con người tốt bụng, sẵn sàng làm những điều, những việc từ thiện, nhân ái nhưng dường như đồng tiền giờ đây có sức chế ngự mạnh hơn. Người ta bảo giờ là “thời Kim Tiền”!
Có những quan chức tham lam, lạm dụng quyền chức vơ vét, dối trá cướp công đồng đội, thực chất là đã tự tha hóa. Những con sâu ấy đã làm vẩn đục môi trường sống của XH, làm người dân bất bình, phẫn nộ và hoài nghi tất cả. Nên thấy đó là nỗi hổ thẹn của một dân tộc. Bởi họ đã không coi pháp luật là gì. Họ tự cho mình quyền “ngồi trên pháp luật”.
Hãy nhìn nguy cơ mất niềm tin thực sự là nguy hiểm, bởi nó ảnh hưởng đến tầm vóc, nhân cách và làm suy yếu dân tộc.
Nhà biên kịch Hồng Ngát: Thế hệ chúng tôi bây giờ thuộc diện “cổ lai hy” rồi. Nhưng không phải cái gì cũ cũng đều bỏ đi. Có những cái cũ tốt thì cần giữ lại. Chả thế mà có người cứ đùa vui (nhưng cũng có sự thật trong đó) rằng “bao giờ cho đến ngày xưa?” Ngày xưa thanh bình ơi, ngày xưa trong trẻo ơi, ngày xưa tình nghĩa ơi, ngày xưa trọng đạo nghĩa hơn tiền bạc ơi… Bao nhiêu cái ơi ấy, bây giờ có gọi cũng chả thấy hay ít thấy trả lời. Thật tiếc!
Nhà báo Thu Hà:Vừa rồi bộ trưởng Hoàng Tuấn Anh có thông báo, hơn 80% gia đình Việt Nam đạt danh hiệu gia đình văn hóa. Các chị có bình luận gì về con số này và thực tế cuộc sống đang diễn ra?
Nhà báo Kim Dung/ Kỳ Duyên: Tôi chợt nhớ đến con số của Bộ trưởng Nguyễn Thái Bình rằng, 99% công chức hoàn thành nhiệm vụ. Con số đó sẽ là sự.. tương hỗ tương thích hơn 80% gia đình văn hóa.
Con số đó chỉ phản chiếu thêm đó là bệnh thành tích, chưa phản ánh được sự thật là các gia đình văn hóa hay không?
Không ai phủ nhận mục đích của cuộc vận động Xây dựng gia đình văn hóa là tốt, vì gia đình là tế bào của XH. Tuy nhiên, đất nước đã chuyển sang cơ chế thị trường, mọi thang bậc giá trị, tiêu chí văn hóa cần gắn kết với thời cuộc mới. Không thể dùng cái tiêu chí cũ để đo các thang bậc giá trị mới.
Nhà biên kịch Hồng Ngát: Khen thưởng đúng thì động viên được rất nhiều. Nhưng nếu chỉ chạy theo thành tích mà ban phát sự khen búa xua thì lại hỏng.
Cạnh sự khen cũng cần biết lắng nghe. Một con người còn luôn luôn phải tu dưỡng sửa đổi mình để tốt lên huống hồ một đất nước. Cái cốt lõi là phải biết lắng nghe những lời nói phải, tránh sự qui chụp cho rằng thế là do họ không tốt với mình, là không ưa mình, ghét mình, cao hơn nữa là “phản bội” mình nên mới nói thế.
Hãy bỏ qua hiện tượng mà nhìn vào bản chất. Ví như có người hay nói nghịch nhĩ nhưng khi có việc khó khăn là thấy họ có mặt ghé vai ngay. Cuộc sống muôn màu như thế đấy. Phải biết tỉnh táo mà nhìn đúng người, đúng việc. Nói là vậy nhưng chẳng phải lúc nào và bao giờ cũng minh mẫn và tỉnh táo được. Nghe khen–dù biết là khen không thật–vẫn cứ thích hơn là nghe chê…
Trớ trêu thay!
(Còn tiếp)
Người Việt thiếu bao dung, ưa cấu kết
“Tính đố kỵ, hẹp hòi đang bào mòn chúng ta. Nhiều người không thích ai hơn mình, họ tìm cách che mờ người khác bằng những chiêu trò vặt, nhỏ mọn đã góp phần làm xấu, làm suy yếu sức mạnh văn hóa dân tộc”, nhà biên kịch Hồng Ngát.
Dân tộc nào cũng yêu nước nồng nàn
Nhà báo Thu Hà:Chúng ta đã có những thành công nhờ gây dựng được những phong trào. Ngày nay, những phòng trào này vẫn tồn tại như các khu văn hóa, gia đình văn hóa, các cụm văn hóa… nhưng xem ra cũng phong trào đó của ngày nay khác với ngày xưa nhiều lắm phải không?
Nhà biên kịch Hồng Ngát: Tôi cho rằng nếu làm thật sự thì sẽ thúc đẩy được sự tiến bộ xã hội. Nhưng nhiều khi phong trào chỉ mang tính hình thức. Ngày xưa, chúng ta tham gia các phòng trào này với niềm tin và lòng nhiệt tình cách mạng. Bây giờ bệnh chạy theo thành tích hơi bị nhiều nên người ta phát động cũng chỉ cốt ghi điểm thôi nên không đi vào thực chất.
Ví dụ như việc xây dựng phong trào khu phố văn hóa, làng văn hóa, thôn xóm văn hóa, gia đình văn hóa… khắp nơi hai chữ văn hóa bị lạm dụng tơi bời. Nếu làm thực sự thì người đứng đầu, người chỉ huy có tâm huyết sẽ phải thường xuyên xuống tận nơi cập nhật tình hình. Xuống để xem khu phố này, gia đình này đã văn hóa thực sự chưa, còn gì “phản văn hóa” không để tìm cách tháo gỡ, giúp đỡ và giải quyết. Nhưng thực tế thế nào mọi người đều thấy rồi. Đâu đâu cũng treo biển Khu phố văn hóa, làng văn hóa nhưng rác vẫn vứt bừa bãi, người vẫn đánh chửi nhau, trộm cắp vẫn xảy ra. Mặc dù theo báo cáo tổng kết thì tỉ lệ gia đình văn hóa trên cả nước đạt ở mức rất cao nhưng số lượng tệ nạn xã hội cũng cao không kém.
Cứ nhìn vào văn hóa giao thông chen lấn tắc đường hàng tiếng là khắc biết cuộc sống nơi đó văn minh đến đâu. Đặc biệt hệ thống loa truyền thanh nhan nhản khắp nơi, từ thành phố cho đến các huyện, xã… oang oang từ tinh mơ tới đêm khuya gây ồn ào náo nhiệt không cần thiết. Tiếng loa nén bị tiếng ồn xe cộ, bị gió thổi tạt nghe tiếng được tiếng mất, các bài hát không đủ kỹ thuật truyền phát rất khó chịu.
Nhà báo Kim Dung/Kỳ Duyên: Mục đích xây dựng phong trào văn hóa là tốt đẹp, bởi mỗi gia đình là tế bào của xã hội, từng tế bào khỏe mạnh thì cơ thể sẽ khỏe mạnh. Nhưng cũng những phong trào này, ở thời xưa chúng ta làm thực chất hơn vì còn trọng giá trị thật. Mặc dù lúc đó cũng đã thấy tính hình thức. Nhưng giai đoạn đó người ta chấp nhận được, xã hội cũng lành mạnh hơn, và đó là thời cuộc của những phong trào.
Mỗi cơ chế quản lý sẽ ứng với một cách làm khác nhau về văn hóa. Nhưng có cảm giác, các nhà quản lý không nghĩ gì đến điều này. Họ làm văn hóa như quán tính, thói quen công chức, rập theo nếp cũ để lấy thành tích báo cáo. Hoặc tư duy họ lẫn các quân sư, các cán bộ tham mưu chỉ đến thế thôi. Có bao nhiêu xài bấy nhiêu. Mà văn hóa là “mưa dầm thấm đất”, được xài kiểu… mưa rào.
Từ khi chúng ta chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ thế thị trường, những thang giá trị văn hóa cũng theo thời thế, bổ sung, hoặc có nhiều thay đổi thì rõ ràng cách làm văn hóa, chấn hưng dân khí, “văn hóa khí, đạo đức khí, văn minh khí” phải thay đổi rất nhạy bén, khôn ngoan và tinh tế để phù hợp với hiện tại thời mới.
Nếu cứ dùng những chiếc “mũ cũ kỹ” của ngày xưa-thời bao cấp, để trang trí cho cuộc sống ngày nay thì đương nhiên sẽ khó phù hợp, sống sượng.
Nếu vẫn giữ cách nghĩ, cách làm của ngày xưa để mặc định cho ngày nay thì hệ quả sẽ là sự hình thức, thậm chí là tiếp tục nói dối, một căn bệnh trầm kha của xã hội.
Nhà báo Thu Hà: Nhìn sang các nước láng giềng, các chị có bình luận gì về cách người Nhật tương kính lẫn nhau, hay cách mà người Do Thái đã vượt khó để minh định thương hiệu dân tộc họ?
Nhà báo Kim Dung/Kỳ Duyên: Cả hai dân tộc đó đều đáng kính nể trong số gần 200 quốc gia trên thế giới. Chính các giá trị văn hóa, mang đậm bản sắc và bền vững của các dân tộc đó đã tạo ra thương hiệu quốc gia và uy tín cũng như sự hùng mạnh của dân tộc họ. Nó cho thấy đụng chạm tới lòng yêu nước, chẳng dân tộc nào kém dân tộc nào. Vấn đề là cách thể hiện, thời điểm thể hiện.
Sẽ chẳng ai quên được sự kiện sóng thần 03 năm trước tại nước Nhật. Cả thế giới phải thán phục, ngưỡng mộ người Nhật về ý chí, lòng nhân ái, tính kỷ luật, và tinh thần dấn thân. Văn hóa của người Nhật đã góp phần gắn kết họ với nhau và tạo ra sức mạnh vượt qua thời khắc khó khăn, mất mát.
Gần đây tôi có đọc một tài liệu về dân tộc Do thái, về sự thần kỳ của đất nước Do thái. Toàn bộ điều kiện cho đất nước này rất khắc nghiệt. Diện tích chỉ trên 20.000 km2, tức là chỉ lớn hơn tỉnh Nghệ An của ta chút ít. Tuy nhiên quốc gia này lại được mệnh danh là “thung lũng silicon” của thế giới trong lĩnh vực nông nghiệp và công nghệ nước. Chỉ với 2,5% dân số làm nông nghiệp nhưng mỗi năm Israel xuất khẩu chừng 3 tỷ USD nông sản, là một trong những nước xuất khẩu hàng đầu thế giới. Ít ai biết rằng, những sản phẩm rau quả từ Arava – một trong những nơi khô cằn nhất thế giới – lại chiếm tới trên 60% tổng sản lượng xuất khẩu rau của Israel và 10% tổng sản lượng hoa xuất khẩu.
Điều đáng nói, từng cá nhân người Do Thái định cư ở đâu cũng góp phần làm vẻ vang cho đất nước, cho dân tộc họ. Sức mạnh thần kỳ của dân tộc Do Thái, đặc biệt nhất là ở cách dùng người, đặc biệt là văn hóa người lãnh đạo, họ rất tôn trọng và lắng nghe các ý tưởng, sáng kiến khác biệt. Ẩn trong đó là sự công tâm của người lãnh đạo, người cầm quyền. Họ đã phải rất “nhẫn” để chiêu hiền đãi sĩ. Đó là sức mạnh dùng người, chứ không phải là lòng tự trọng theo kiểu kẻ sĩ. Chính văn hóa đó đã định vị thương hiệu và uy tín của dân tộc Do thái trên trường quốc tế.
Nhà biên kịch Hồng Ngát: Nước Nhật không được thiên nhiên ưu đãi nhiều tài nguyên như các nước khác. Tài nguyên duy nhất của họ là chất xám. Là tri thức, là tài năng được trọng dụng ở các lĩnh vực. Chính vì vậy họ đã có những phát mình, những sáng chế khiến cả thế giới phải nể phục. Họ đã làm cho đất nước họ ngày càng phồn vinh. Sự phồn vinh đi đôi với nề nếp, với đạo đức, lối sống. Cứ nhìn cung cách họ ra nước ngoài- biết họ là người Nhật, ở đâu và ai ai cũng kính trọng. Thật thèm khát và ao ước làm sao bao giờ người Việt mình cũng được kính trọng như thế?
Người Do Thái cũng vậy. Một dân tộc cực kỳ thông minh và có ý chí. Trước đây họ không có mảnh đất cắm rùi đồng nghĩa với sự không có Tổ quốc, nay có rồi nhưng cũng chả rộng lớn gì. Song, người Do Thái có mặt ở khắp những nơi được vinh danh trong nhiều lĩnh vực của khoa học tự nhiên cũng như khoa học xã hội. Tôi nhớ hồi học ở VGIK (trường điện ảnh Matxcova) các giáo sư, tiến sĩ – những người thầy giỏi nhất trường được kính nể nhất trường đều là người gốc Do Thái.
Tính đố kỵ đang bào mòn chúng ta
Nhà báo Thu Hà:Dân gian người ta so sánh rằng, một người Việt thì bằng một người Nhật, nhưng ba người Việt sẽ thua ba người Nhật? Các chị suy nghĩ gì về thực tế này?
Nhà biên kịch Hồng Ngát: Điều đó cho thấy rằng sự tương tác, tính cộng đồng của người Việt rất kém. Trong quá khứ, trong chiến tranh, trong những lúc khốn cùng nhất, chúng ta đã rất đồng lòng, và làm nên lịch sử, làm nên uy tín quốc gia. Vậy tại sao giờ đây, những mối quan hệ người với người trong xã hội, trong mỗi tập thể, trong từng gia đình lại trở nên lỏng lẻo và mờ nhạt như hiện nay?
Chính tính đố kỵ, lòng ghen ghét thiếu bao dung, vị kỷ đang bào mòn chúng ta. Nhiều người không thích ai hơn mình, họ luôn tìm cách che mờ người khác bằng những chiêu trò vặt vãnh, nhỏ mọn đã góp phần làm xấu, làm suy yếu sức mạnh văn hóa dân tộc.
Ví dụ, khi bắt đầu cùng nghiên cứu một đề tài, hay cùng làm một việc họ tỏ ra rất đồng lòng. Nhưng nếu chẳng may đề tài đó, công việc đó không thành công thì họ sẽ tìm cách đổ lỗi cho nhau. Hoặc nếu thành công thì tìm cách nhận thật nhiều thành quả về phía mình, tranh nhau hơn thua vị trí cũng như đãi ngộ.. Sự mất đoàn kết, thiếu tương kính mỗi ngày một nhiều. Không ít trường hợp, từ mối quan hệ người trong một nhà lại trở thành kẻ thù, từ những người bạn tốt lại trở thành xa lạ.
Ở nước Nhật, ngay từ bé, người ta đã không thêu dệt mộng mị cho những đứa trẻ mà họ nói thẳng rằng đất nước họ không có tài nguyên và những đứa trẻ đó buộc phải cố gắng vươn lên nếu muốn tồn tại, họ dạy nhau và cùng nhau gìn giữ tính kỷ luật, lòng bao dung và yêu thương chia sẻ. Từ bé, trẻ em Nhật đã ý thức được điều đó, trong gia đình cũng vậy, họ sống chia sẻ và nhường nhịn, nên khi cơn bão ập đến, văn hóa của người Nhật đã giúp họ ngẩng cao đầu, vượt qua gian khó rất nhanh. Đói khát đến mấy, một đứa trẻ Nhật cũng không xin xỏ, chen lấn, tranh cướp đồ ăn, em bé kiên nhẫn xếp hàng chờ đến lượt chứ không đòi ưu tiên.
Nhìn lại mình, tôi thấy báo chí một dạo phản ảnh việc mượn trẻ con, thuê trẻ con đi ăn xin nhằm đánh vào lòng thương hại. Người lớn thì ngồi nhà chăn dắt thật đúng là tụt xuống tận đáy sự liêm sỉ, sự nhẫn tâm. Xe bị nạn đổ rơi hàng hóa thì xông vào hôi của, không quan tâm tới đồng loại đang bị nạn.
“Người Việt thông minh nhưng chậm lớn”
Nhà báo Kim Dung/Kỳ Duyên: Về vấn đề này, tôi thấy dân tộc Việt Nam có một đặc điểm rất rõ.
Đó là khi lâm vào chiến tranh, phải chiến đấu bảo vệ chủ quyền độc lập dân tộc, người Việt rất biết đoàn kết, sẵn sàng xả thân cho đất nước. Lòng yêu nước thực sự trở thành “định hướng, hướng đạo” cho họ cách sống văn hóa, cách sống đẹp trong ứng xử với vận mệnh đất nước, ứng xử trong cộng đồng, giữa cá nhân với nhau. Cuộc chiến tranh cứu nước của Việt Nam, với hai lần chiến thẳng, thắng Pháp, thắng Mỹ chính là nhờ có sức mạnh tinh thần đoàn kết, sức mạnh văn hóa cộng đồng này.
Nhưng chuyển sang giai đoạn hòa bình, và nhất là hiện nay, khi xã hội chuyển sang cơ chế thị trường, thì một điều rất lạ, kinh tế tốt hơn, đời sống thay đổi hơn nhiều, con người có nhiều cơ hội làm giàu vốn văn hóa và kinh tế thì ngược lại, chúng ta đã không đạt được sự đoàn kết, tương kính và bao dung.
Khi giáo sư Ngô Bảo Châu được nhận giải Field, tôi có viết một bài tựa đề “Người Việt thông minh nhưng chậm lớn”. Một dân tộc thông minh nhưng chậm lớn ở chỗ, người Việt không có tính cộng đồng thực sự, mà thường có tính a dua, không có tính đoàn kết, mà là tính cấu kết. Điều này thể hiện rất rõ trong lễ hội Hoa Xuân Hà Nội năm nào. Người ta a dua hái hoa, ngắt hoa, phá hoa, có khi hái xong chả làm gì lại vứt. Nhưng thấy người khác làm là cũng phải làm theo.
Quan hệ xã hội bây giờ người ta đặt lợi ích cá nhân làm trung tâm, có lợi thì chơi, nói là bè bạn, nhưng tính bè rất rõ, rõ hơn cả tính bạn. Bởi lợi ích cá nhân làm trung tâm, chi phối chính quan hệ bạn bè đó.
Cao hơn nữa, giờ đây báo chí, dư luận xã hội, và ngay cả các quan chức cao cấp cũng thường nói về tác hại của lợi ích nhóm.
Lý giải về điều này, chỉ xin chọn một góc nhỏ, xuất phát từ nền văn minh nông nghiệp, về tư duy người Việt.
Có lẽ do bản chất là đất nước nông nghiệp, 80-90% là nông dân, và cái tư duy tiểu nông, tư hữu đã cố hữu ăn sâu vào máu thịt, vào tâm thức chúng ta kiểu “con gà tức nhau tiếng gáy”, “cái sân nhà anh không thể cao hơn sân nhà tôi”. Đặc tính này có thể quan sát ở các ngôi nhà tầng tại đô thị. Hai nhà xây cùng ở cạnh nhau, nhà xây sau dứt khoát xây cái ban công, cao hơn hẳn ban công nhà bên cạnh, mà xây trước. Đó không phải sự khác biệt, mà là sự không muốn người khác hơn mình. Có thể nói đây là một cá tính rất xấu thâm căn cố đế của tư duy ích kỷ, kém văn minh.
Chuyển từ một đất nước nông nghiệp sang nền kinh tế thị trường chúng ta đã có cuộc sống tốt hơn, nhưng tiếc rằng, tầm nhìn hạn hẹp, ích kỷ nên nhiều người đã bị đồng tiền chi phối, giật dây cộng với bối cảnh cơ chế của chúng ta còn nhiều lỗ hổng, đã góp phần làm xấu, làm suy yếu sức mạnh văn hóa dân tộc.
Còn nữa
“Tính đố kỵ, hẹp hòi đang bào mòn chúng ta. Nhiều người không thích ai hơn mình, họ tìm cách che mờ người khác bằng những chiêu trò vặt, nhỏ mọn đã góp phần làm xấu, làm suy yếu sức mạnh văn hóa dân tộc”, nhà biên kịch Hồng Ngát.
Dân tộc nào cũng yêu nước nồng nàn
Nhà báo Thu Hà:Chúng ta đã có những thành công nhờ gây dựng được những phong trào. Ngày nay, những phòng trào này vẫn tồn tại như các khu văn hóa, gia đình văn hóa, các cụm văn hóa… nhưng xem ra cũng phong trào đó của ngày nay khác với ngày xưa nhiều lắm phải không?
Nhà biên kịch Hồng Ngát: Tôi cho rằng nếu làm thật sự thì sẽ thúc đẩy được sự tiến bộ xã hội. Nhưng nhiều khi phong trào chỉ mang tính hình thức. Ngày xưa, chúng ta tham gia các phòng trào này với niềm tin và lòng nhiệt tình cách mạng. Bây giờ bệnh chạy theo thành tích hơi bị nhiều nên người ta phát động cũng chỉ cốt ghi điểm thôi nên không đi vào thực chất.
Ví dụ như việc xây dựng phong trào khu phố văn hóa, làng văn hóa, thôn xóm văn hóa, gia đình văn hóa… khắp nơi hai chữ văn hóa bị lạm dụng tơi bời. Nếu làm thực sự thì người đứng đầu, người chỉ huy có tâm huyết sẽ phải thường xuyên xuống tận nơi cập nhật tình hình. Xuống để xem khu phố này, gia đình này đã văn hóa thực sự chưa, còn gì “phản văn hóa” không để tìm cách tháo gỡ, giúp đỡ và giải quyết. Nhưng thực tế thế nào mọi người đều thấy rồi. Đâu đâu cũng treo biển Khu phố văn hóa, làng văn hóa nhưng rác vẫn vứt bừa bãi, người vẫn đánh chửi nhau, trộm cắp vẫn xảy ra. Mặc dù theo báo cáo tổng kết thì tỉ lệ gia đình văn hóa trên cả nước đạt ở mức rất cao nhưng số lượng tệ nạn xã hội cũng cao không kém.
Cứ nhìn vào văn hóa giao thông chen lấn tắc đường hàng tiếng là khắc biết cuộc sống nơi đó văn minh đến đâu. Đặc biệt hệ thống loa truyền thanh nhan nhản khắp nơi, từ thành phố cho đến các huyện, xã… oang oang từ tinh mơ tới đêm khuya gây ồn ào náo nhiệt không cần thiết. Tiếng loa nén bị tiếng ồn xe cộ, bị gió thổi tạt nghe tiếng được tiếng mất, các bài hát không đủ kỹ thuật truyền phát rất khó chịu.
Nhà báo Kim Dung/Kỳ Duyên: Mục đích xây dựng phong trào văn hóa là tốt đẹp, bởi mỗi gia đình là tế bào của xã hội, từng tế bào khỏe mạnh thì cơ thể sẽ khỏe mạnh. Nhưng cũng những phong trào này, ở thời xưa chúng ta làm thực chất hơn vì còn trọng giá trị thật. Mặc dù lúc đó cũng đã thấy tính hình thức. Nhưng giai đoạn đó người ta chấp nhận được, xã hội cũng lành mạnh hơn, và đó là thời cuộc của những phong trào.
Mỗi cơ chế quản lý sẽ ứng với một cách làm khác nhau về văn hóa. Nhưng có cảm giác, các nhà quản lý không nghĩ gì đến điều này. Họ làm văn hóa như quán tính, thói quen công chức, rập theo nếp cũ để lấy thành tích báo cáo. Hoặc tư duy họ lẫn các quân sư, các cán bộ tham mưu chỉ đến thế thôi. Có bao nhiêu xài bấy nhiêu. Mà văn hóa là “mưa dầm thấm đất”, được xài kiểu… mưa rào.
Nhà báo Kim Dung/Kỳ Duyên, nhà biên kịch Hồng Ngát, nhà báo Thu Hà (từ trái qua phải). |
Từ khi chúng ta chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ thế thị trường, những thang giá trị văn hóa cũng theo thời thế, bổ sung, hoặc có nhiều thay đổi thì rõ ràng cách làm văn hóa, chấn hưng dân khí, “văn hóa khí, đạo đức khí, văn minh khí” phải thay đổi rất nhạy bén, khôn ngoan và tinh tế để phù hợp với hiện tại thời mới.
Nếu cứ dùng những chiếc “mũ cũ kỹ” của ngày xưa-thời bao cấp, để trang trí cho cuộc sống ngày nay thì đương nhiên sẽ khó phù hợp, sống sượng.
Nếu vẫn giữ cách nghĩ, cách làm của ngày xưa để mặc định cho ngày nay thì hệ quả sẽ là sự hình thức, thậm chí là tiếp tục nói dối, một căn bệnh trầm kha của xã hội.
Nhà báo Thu Hà: Nhìn sang các nước láng giềng, các chị có bình luận gì về cách người Nhật tương kính lẫn nhau, hay cách mà người Do Thái đã vượt khó để minh định thương hiệu dân tộc họ?
Nhà báo Kim Dung/Kỳ Duyên: Cả hai dân tộc đó đều đáng kính nể trong số gần 200 quốc gia trên thế giới. Chính các giá trị văn hóa, mang đậm bản sắc và bền vững của các dân tộc đó đã tạo ra thương hiệu quốc gia và uy tín cũng như sự hùng mạnh của dân tộc họ. Nó cho thấy đụng chạm tới lòng yêu nước, chẳng dân tộc nào kém dân tộc nào. Vấn đề là cách thể hiện, thời điểm thể hiện.
Sẽ chẳng ai quên được sự kiện sóng thần 03 năm trước tại nước Nhật. Cả thế giới phải thán phục, ngưỡng mộ người Nhật về ý chí, lòng nhân ái, tính kỷ luật, và tinh thần dấn thân. Văn hóa của người Nhật đã góp phần gắn kết họ với nhau và tạo ra sức mạnh vượt qua thời khắc khó khăn, mất mát.
Ẩn trong đó là sự công tâm của người lãnh đạo, người cầm quyền. Họ đã phải rất “nhẫn” để chiêu hiền đãi sĩ. Đó là sức mạnh dùng người, chứ không phải là lòng tự trọng theo kiểu kẻ sĩ.
Điều đáng nói, từng cá nhân người Do Thái định cư ở đâu cũng góp phần làm vẻ vang cho đất nước, cho dân tộc họ. Sức mạnh thần kỳ của dân tộc Do Thái, đặc biệt nhất là ở cách dùng người, đặc biệt là văn hóa người lãnh đạo, họ rất tôn trọng và lắng nghe các ý tưởng, sáng kiến khác biệt. Ẩn trong đó là sự công tâm của người lãnh đạo, người cầm quyền. Họ đã phải rất “nhẫn” để chiêu hiền đãi sĩ. Đó là sức mạnh dùng người, chứ không phải là lòng tự trọng theo kiểu kẻ sĩ. Chính văn hóa đó đã định vị thương hiệu và uy tín của dân tộc Do thái trên trường quốc tế.
Nhà biên kịch Hồng Ngát: Nước Nhật không được thiên nhiên ưu đãi nhiều tài nguyên như các nước khác. Tài nguyên duy nhất của họ là chất xám. Là tri thức, là tài năng được trọng dụng ở các lĩnh vực. Chính vì vậy họ đã có những phát mình, những sáng chế khiến cả thế giới phải nể phục. Họ đã làm cho đất nước họ ngày càng phồn vinh. Sự phồn vinh đi đôi với nề nếp, với đạo đức, lối sống. Cứ nhìn cung cách họ ra nước ngoài- biết họ là người Nhật, ở đâu và ai ai cũng kính trọng. Thật thèm khát và ao ước làm sao bao giờ người Việt mình cũng được kính trọng như thế?
Nhà biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát (trái) |
Người Do Thái cũng vậy. Một dân tộc cực kỳ thông minh và có ý chí. Trước đây họ không có mảnh đất cắm rùi đồng nghĩa với sự không có Tổ quốc, nay có rồi nhưng cũng chả rộng lớn gì. Song, người Do Thái có mặt ở khắp những nơi được vinh danh trong nhiều lĩnh vực của khoa học tự nhiên cũng như khoa học xã hội. Tôi nhớ hồi học ở VGIK (trường điện ảnh Matxcova) các giáo sư, tiến sĩ – những người thầy giỏi nhất trường được kính nể nhất trường đều là người gốc Do Thái.
Tính đố kỵ đang bào mòn chúng ta
Nhà báo Thu Hà:Dân gian người ta so sánh rằng, một người Việt thì bằng một người Nhật, nhưng ba người Việt sẽ thua ba người Nhật? Các chị suy nghĩ gì về thực tế này?
Nhà biên kịch Hồng Ngát: Điều đó cho thấy rằng sự tương tác, tính cộng đồng của người Việt rất kém. Trong quá khứ, trong chiến tranh, trong những lúc khốn cùng nhất, chúng ta đã rất đồng lòng, và làm nên lịch sử, làm nên uy tín quốc gia. Vậy tại sao giờ đây, những mối quan hệ người với người trong xã hội, trong mỗi tập thể, trong từng gia đình lại trở nên lỏng lẻo và mờ nhạt như hiện nay?
Chính tính đố kỵ, lòng ghen ghét thiếu bao dung, vị kỷ đang bào mòn chúng ta. Nhiều người không thích ai hơn mình, họ luôn tìm cách che mờ người khác bằng những chiêu trò vặt vãnh, nhỏ mọn đã góp phần làm xấu, làm suy yếu sức mạnh văn hóa dân tộc.
Ví dụ, khi bắt đầu cùng nghiên cứu một đề tài, hay cùng làm một việc họ tỏ ra rất đồng lòng. Nhưng nếu chẳng may đề tài đó, công việc đó không thành công thì họ sẽ tìm cách đổ lỗi cho nhau. Hoặc nếu thành công thì tìm cách nhận thật nhiều thành quả về phía mình, tranh nhau hơn thua vị trí cũng như đãi ngộ.. Sự mất đoàn kết, thiếu tương kính mỗi ngày một nhiều. Không ít trường hợp, từ mối quan hệ người trong một nhà lại trở thành kẻ thù, từ những người bạn tốt lại trở thành xa lạ.
Ở nước Nhật, ngay từ bé, người ta đã không thêu dệt mộng mị cho những đứa trẻ mà họ nói thẳng rằng đất nước họ không có tài nguyên và những đứa trẻ đó buộc phải cố gắng vươn lên nếu muốn tồn tại, họ dạy nhau và cùng nhau gìn giữ tính kỷ luật, lòng bao dung và yêu thương chia sẻ. Từ bé, trẻ em Nhật đã ý thức được điều đó, trong gia đình cũng vậy, họ sống chia sẻ và nhường nhịn, nên khi cơn bão ập đến, văn hóa của người Nhật đã giúp họ ngẩng cao đầu, vượt qua gian khó rất nhanh. Đói khát đến mấy, một đứa trẻ Nhật cũng không xin xỏ, chen lấn, tranh cướp đồ ăn, em bé kiên nhẫn xếp hàng chờ đến lượt chứ không đòi ưu tiên.
Nhìn lại mình, tôi thấy báo chí một dạo phản ảnh việc mượn trẻ con, thuê trẻ con đi ăn xin nhằm đánh vào lòng thương hại. Người lớn thì ngồi nhà chăn dắt thật đúng là tụt xuống tận đáy sự liêm sỉ, sự nhẫn tâm. Xe bị nạn đổ rơi hàng hóa thì xông vào hôi của, không quan tâm tới đồng loại đang bị nạn.
“Người Việt thông minh nhưng chậm lớn”
Nhà báo Kim Dung/Kỳ Duyên và nhà biên kịch Hồng Ngát (trái qua phải) |
Nhà báo Kim Dung/Kỳ Duyên: Về vấn đề này, tôi thấy dân tộc Việt Nam có một đặc điểm rất rõ.
Đó là khi lâm vào chiến tranh, phải chiến đấu bảo vệ chủ quyền độc lập dân tộc, người Việt rất biết đoàn kết, sẵn sàng xả thân cho đất nước. Lòng yêu nước thực sự trở thành “định hướng, hướng đạo” cho họ cách sống văn hóa, cách sống đẹp trong ứng xử với vận mệnh đất nước, ứng xử trong cộng đồng, giữa cá nhân với nhau. Cuộc chiến tranh cứu nước của Việt Nam, với hai lần chiến thẳng, thắng Pháp, thắng Mỹ chính là nhờ có sức mạnh tinh thần đoàn kết, sức mạnh văn hóa cộng đồng này.
Nhưng chuyển sang giai đoạn hòa bình, và nhất là hiện nay, khi xã hội chuyển sang cơ chế thị trường, thì một điều rất lạ, kinh tế tốt hơn, đời sống thay đổi hơn nhiều, con người có nhiều cơ hội làm giàu vốn văn hóa và kinh tế thì ngược lại, chúng ta đã không đạt được sự đoàn kết, tương kính và bao dung.
Khi giáo sư Ngô Bảo Châu được nhận giải Field, tôi có viết một bài tựa đề “Người Việt thông minh nhưng chậm lớn”. Một dân tộc thông minh nhưng chậm lớn ở chỗ, người Việt không có tính cộng đồng thực sự, mà thường có tính a dua, không có tính đoàn kết, mà là tính cấu kết. Điều này thể hiện rất rõ trong lễ hội Hoa Xuân Hà Nội năm nào. Người ta a dua hái hoa, ngắt hoa, phá hoa, có khi hái xong chả làm gì lại vứt. Nhưng thấy người khác làm là cũng phải làm theo.
Quan hệ xã hội bây giờ người ta đặt lợi ích cá nhân làm trung tâm, có lợi thì chơi, nói là bè bạn, nhưng tính bè rất rõ, rõ hơn cả tính bạn. Bởi lợi ích cá nhân làm trung tâm, chi phối chính quan hệ bạn bè đó.
Cao hơn nữa, giờ đây báo chí, dư luận xã hội, và ngay cả các quan chức cao cấp cũng thường nói về tác hại của lợi ích nhóm.
Lý giải về điều này, chỉ xin chọn một góc nhỏ, xuất phát từ nền văn minh nông nghiệp, về tư duy người Việt.
Có lẽ do bản chất là đất nước nông nghiệp, 80-90% là nông dân, và cái tư duy tiểu nông, tư hữu đã cố hữu ăn sâu vào máu thịt, vào tâm thức chúng ta kiểu “con gà tức nhau tiếng gáy”, “cái sân nhà anh không thể cao hơn sân nhà tôi”. Đặc tính này có thể quan sát ở các ngôi nhà tầng tại đô thị. Hai nhà xây cùng ở cạnh nhau, nhà xây sau dứt khoát xây cái ban công, cao hơn hẳn ban công nhà bên cạnh, mà xây trước. Đó không phải sự khác biệt, mà là sự không muốn người khác hơn mình. Có thể nói đây là một cá tính rất xấu thâm căn cố đế của tư duy ích kỷ, kém văn minh.
Chuyển từ một đất nước nông nghiệp sang nền kinh tế thị trường chúng ta đã có cuộc sống tốt hơn, nhưng tiếc rằng, tầm nhìn hạn hẹp, ích kỷ nên nhiều người đã bị đồng tiền chi phối, giật dây cộng với bối cảnh cơ chế của chúng ta còn nhiều lỗ hổng, đã góp phần làm xấu, làm suy yếu sức mạnh văn hóa dân tộc.
Còn nữa
Text content 3
Theo Vietnamnet
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét